Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2018
Ngôn ngữ lịch sử không thể bất cản
“NGÔN NGỮ LỊCH SỬ” KHÔNG THỂ BẤT CẨN
(Nhân đọc cuốn HẠNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM (2018) và Bài 76 : LỊCH
SỬ HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM của Sách BẢN HỎI THƯA GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
(2013) của HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM)
Cha sở quê nhà
Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam đã chính thức Khai Mạc Năm Thánh mừng kính Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm (1988-2018) “ngày tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh”.[1]
Trong
dịp nầy, HĐGMVN đã đề nghị cho toàn thể cộng đồng dân Chúa Việt Nam nhiều việc
làm và cách thể hiện cụ thể thực hành Năm Thánh; trong đó có việc “chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin
của các Thánh Tử Đạo Việt nam”.[2]
Và
như lời hứa của HĐGMVN trong Thư Công Bố Năm Thánh : “Hội đồng giám mục sẽ phổ biến tập sách hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
ghi lại vắn tắt gương sống đức tin và cuộc tử đạo của các thánh…”[3],
thì vào đầu tháng 6 năm 2018, tác phẩm HẠNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM đã
được xuất bản do HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM (“đứng tên”) dưới sự chủ biên của
Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm.[4]
Dĩ
nhiên đây là một tác phẩm thuộc “văn hoá phẩm đức tin” chính truyền, có uy tín,
đã được sự chuẩn nhận của Huấn Quyền mà nơi trang chẵn của tờ đầu tiên sau bìa,
in rõ con dấu và chữ ký xác nhận “IMPRIMATUR” của Đức Giám Mục Giuse Nguyễn Chí
Linh, Tổng giám mục, Tổng giáo phận Huế, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam.[5]
Xét
về nội dung lẫn hình thức, quả thật, tác phẩm trên xuất hiện thật đúng lúc, và như
Đức cha Phêô Nguyễn Văn Khảm phát biểu trong LỜI NÓI ĐẦU “quý độc giả xa gần đã và sẽ đón nhận tập sách nầy làm bạn đồng hành”[6]
Trong
những dòng cuối của LỜI NÓI ĐẦU, cho dù là những lời mang tính “công thức”, Đức
cha chủ biên đã xác nhận : “Chắc chắn
việc biên soạn tập sách nầy còn nhiều thiếu sót, ước mong đón nhận được những
góp ý chân thành của quý độc giả, để công việc chung ngày càng tốt đẹp hơn”.
Trong
đại gia đình con cái Chúa, chúng ta phải tin đó là những lời chân thật của Đức
Cha chứ không phải là một “công thức rập khuôn”. Vì thế, xin được mạnh dạn đạo
đạt “những góp ý chân thành” sau đây
:
I. NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT
1. Lịch sử “rẻ như bèo”[7]
:
Chúng
ta đang đề cập tới một tác phẩm liên quan đến Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam trong
một bối cảnh xã hội mà bộ môn lịch sử đang trở thành một “quốc nạn giáo dục”.
Bằng chứng là trong những ngày nầy, cộng đồng mạng tốn khá nhiều giấy mực về
kết quả điểm thi môn Lịch Sử của kỳ thi THPT vừa qua :
“Theo kết quả sơ bộ của kỳ thi thi THPT quốc
gia năm 2018 cho thấy, gần 84% bài thi môn Lịch sử năm nay dưới điểm trung
bình. So với các năm trước, điểm thi này là thấp hơn. Ví dụ điểm trung bình năm
2016 là 4,49; năm 2017 là 4,6, còn năm nay là 3,79…”[8]
Có rất nhiều nhận
định, đánh giá, “bắt mạch” cho cái căn bệnh “học lịch sử” khá trầm kha nầy. Có
kẻ cho rằng do việc dạy môn lịch sử “sai
phương pháp…, giáo dục theo hướng tiếp cận nội dung
mà chưa chuyển sang tiếp cận năng lực. Nhồi nhét một mớ kiến thức có sẵn vừa
nặng về học thuộc ghi nhớ, vừa nặng về tuyên truyền mà không biết áp dụng vào
đâu sẽ gây ra sự phản cảm, nhàm chán…”[9];
cũng có kẻ cho rằng khi
lịch sử biến thành công cụ để hậu thuẩn cho chính trị, cho mưu đồ…dễ dàng thiếu
trung thực và sẵn sàng bị bóp méo, nên không thể thuyết phục được ai ham thích,
học hỏi lịch sử. (Xem thêm bài viết : Những lừa đảo, bóp méo lịch sử…của Cao
Đắc Tuấn[10] và bloger Thuận Nhân[11]).
Nếu
môn “lịch sử đời” đã ế ẩm như thế, thì đã chắc gì môn “lịch sử đạo” khả quan
hơn ?
Sở
dĩ đưa ra một số nhận định hơi tiêu cực trên khi bàn đến
chuyên đề lịch sử là để dân Công Giáo chúng ta biết quý trọng lịch sử, ham học
hỏi lịch sử để như Chúa Giêsu dạy : nhờ lịch sử mà “rút ra được những cái mới cũ từ trong kho tàng của mình” (Mt 13,52).
2. “Ngôn ngữ
lịch sử” không thể bất cẩn :
Nhà văn khoa học viễn tưởng
người Mỹ, Robert A Heinlein (1907-1988), đã có một nhận định về
lịch sử thật thâm thúy :
Nhưng, “không
ngoảnh mặt lại với lịch sử” lại không đồng nghĩa với “hiểu biết lịch sử”. Bởi
vì, nếu chỉ mới dừng lại ở thích lịch sử, yêu lịch sử, hướng về lịch sử…mà
không biết chút xíu nào về lịch sử, thì lại là điều đáng trách, như cách nhận
định “thẳng thừng” của Marcus Tullius Cicero[12]
:
(Nescire autem quid antequam
natus sis acciderit, id est semper esse puerum).
Trong Năm Thánh mừng
Các Thánh Tử đạo Việt Nam nầy, lịch sử mà chúng ta cần biết, cần học như HĐGMVN
mời gọi trong Thư Công bố Năm Thánh đó chính là “lịch sử Hội Thánh và các
Thánh Tử Đạo”, để “theo gương sống của các Ngài”.
Nhưng để tránh cái não
trạng xem thường lịch sử, lãnh đạm với lịch sử trong môi trường sống đạo, thiết
tưởng các tài liệu lịch sử mang tính “đồng hành” của Giáo Hội luôn phải “khả
tín”, trung thực, không có chuyện “tài liệu nầy nói xuôi”, tài liệu kia “nói
ngược”…
Nói cách khác, “ngôn
ngữ lịch sử” không được tuỳ tiện, bất cẩn mà phải trung thực, chuẩn mực nghiêm
túc; nhất là những tài liệu mang tính “giáo lý” như hai tác phẩm được đề cập
dưới đây lại càng phải chỉn chu, đúng mực :
- Hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam của HĐGMVN vừa mới phát hành
(nxbtg, 2018).
- Bản hỏi thưa giáo lý Hội Thánh
Công Giáo phát hành năm 2013 (nxbtg, 2013).
II. NHỮNG CHI TIẾT LỊCH SỬ CẦN
ĐÍNH CHÍNH NGAY
1. Những chi tiết trong cuốn HẠNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠOVIỆT NAM[13]
:
1.1/. Hạnh Thánh ÉTIENNE THÉODORE
CUENOT-THỂ, Giám mục Hội thừa Sai Paris (1802-1861). (Số 79. Trang 224-227) :
Có 2 chi tiết sai cần được đính chính :
a/. Bà Maria Mađalêna Huỳnh Thị Lưu
(Chứ không phải Lựu như sách viết : “Đức
Cha dâng Thánh lễ tại gia đình bà Maria Mađalêna Huỳnh Thị Lựu.(…). Mọi người trong nhà đều bị tra tấn, bà Lựu cũng bị đánh đòn 17 roi.”
(SĐD trang 226).
Sở
dĩ cần được đính chính danh xưng nầy, vì đây là tên chính thức của một trong 20
Vị Tôi Tớ Chúa được Toà Thánh công nhận qua sắc lệnh tuyên bố ngày 12 tháng 11
năm 1918. (Xem thêm Tài liệu : các Tôi Tớ Chúa trong CẨM NANG NĂM THÁNH của
Giáo phận Qui Nhơn[14],
hoặc tác phẩm GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN[15])
b/. Thầy bốn Tuyên và chú
Nghiêm : Một đại chủng sinh (Thầy Bốn Tuyên) và một tiểu
chủng sinh (chú Nghiêm) chứ không phải chỉ là hai chú giúp lễ
như sách viết : “Đức Cha Cuenot – Thể và hai chú giúp lễ, Nghiêm và Tuyên…”.
Đây cũng là hai vị Tôi Tớ Chúa tử đạo đã được Toà Thánh công nhận ngày
12/11/1918 và đang chờ phong Chân phước)[16]
1.2/. Hạnh Thánh ANRÊ NGUYỄN KIM
THÔNG (NĂM THUÔNG) Trùm họ (1790 – 1855). (Số 87. Trang 244-245) : Có 2 chi
tiết sai cần được đính chính :
a/. Trùm cả Bình Định
chứ không chỉ là một Trùm họ (ông trùm một giáo
họ) bình thường như sách để ngay từ tiêu đề : “ANRÊ NGUYỄN KIM THÔNG (NĂM
THUÔNG) Trùm họ (1790 – 1855”. Vì tài liệu được viết dựa theo
nguồn tài liệu “Các Vị Tử Đạo của Giáo phận Qui Nhơn”, nên xin trích dẫn để xác
minh chi tiết nầy :
“Đối với Hội Thánh, ngài là một tín hữu đạo đức, một tông đồ nhiệt
thành, một cọng tác viên khôn ngoan, vì thế ngài đã được Đức cha Stêphanô
Cuénot đặt làm trùm cả Bình Định.
Với tư cách đó ngài đã trợ giúp Đức cha trong việc mục vụ và truyền giáo cách
tận tuỵ, không quản ngại hy sinh sức khoẻ, thời giờ và tiền bạc. Có thể nói,
một phần chính nhờ sự hy sinh và khôn khéo của ngài mà Đức cha có thể cai quản
giáo phận cách bình yên và phát triển trong suốt một thời gian rất dài gữa thời
cấm cách. Do tư cách đạo đức, ngài trở thành người có uy tín đối với tất cả mọi
người không phân biệt lương giáo, nhờ đó việc mở mang Nước Chúa gặp được điều
kiện thuận lợi”[17]
Chi
tiết trên không chỉ liên quan đến từ “TRÙM CẢ” mà là điểm nhấn cốt lõi trong
“nhân đức và yếu tố thánh” của Vị Tử Đạo Năm Thuông, một chi tiết mà Sách Hạnh
Các Thánh không thèm nhắc tới !
Chính
cái tiêu đề trong tài liệu trên cũng ghi rõ : THÁNH ANRÊ NGUYỄN KIM THÔNG TRÙM CẢ TỬ ĐẠO (1790-1855)[18]
(Xem thêm : GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN[19])
b/. Nguyễn Kim Thông
chứ không phải Trần Kim Thông như sách viết : “Thánh Anrê Trần Kim
Thông sinh năm…”.
Dĩ
nhiên, ai cũng hiểu đây là do “lỗi kỷ thuật”. Tuy nhiên, ngay từ dòng đầu tiên
mà sai liền, nếu không sửa, với kỷ thuật “cắt, dán…” của thời đại vi tính nầy,
một chi tiết nhỏ cũng có thể dẫn đến những “ngộ nhận lịch sử” tai hại.
1.3/. Hạnh Chân phước ANRÊ PHÚ
YÊN Thầy giảng (1625 – 1644). (Số 118, trang 316-318). Có một chi tiết sai trầm trọng cần chỉnh sửa và 1 chi tiết thiếu cần bổ sung :
a/. Chi tiết sai : Không có Ông
Nghè Bộ nào trấn nhiệm tỉnh Phú Yên như sách viết : “Tháng 7 năm 1644, Quan Nghè
Bộ trấn nhiệm tỉnh Phú Yên nhận được sắc chỉ từ Chúa Nguyễn ra lệnh cấm
truyền đạo…”.
Trước
hết, người viết xin được lưu ý rằng : Tài liệu liên quan đến “hồ sơ phong chân
phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên” có thể nói được là nhiều, đầy đủ và phong
phú nhất trong số các hồ sơ tử đạo tại Việt Nam. Cho nên, viết lịch sử về cuộc
tử đạo của Ngài trong một tài liệu mang tính giáo lý cho mọi tín hữu đọc,
học…mà sai và sai khá trầm trọng thì không thể chấp nhận được.Sách Hạnh các
Thánh Tử Đạo khi trình bày về Á Thánh Anrê Phú Yên đã dẫn nguồn với với 2 ghi
chú (29 : Theo tài liệu “Các Vị Tử đạo
của Giáo Phận Qui Nhơn”, do Giáo phận Qui Nhơn cung cấp) và (30 : Ibid.).
Không biết vì chủ quan hay “sớn sát” mà viết như thế, chứ tài liệu của Qui Nhơn
hoàn toàn không có chi tiết nầy. Xin trích :
- Tài liệu 1 : CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
GIÁO PHẬN : “Ngày 25 tháng 07 năm 1644,
ông Nghè Bộ cho lính đến trụ sở Dòng
Tên tại Hội An tìm bắt thầy Ignatio theo lệnh bà Tống Thị. (…). Trong
lúc tấn bi kịch xảy ra tại Hội An
thì cha Đắc Lộ và các thầy giảng sắp vào dinh
trấn thăm hữu nghị ông Nghè Bộ…”[20]
- Tài liệu 2 : GIÁO PHẬN QUI NHƠN
QUA DÒNG THỜI GIAN : Cha Đắc Lộ viết lại
tình hình những ngày tháng ấy tại Qui Nhơn : “Khi giáo dân tỉnh Qui Nhơn nghe
tin thầy Anrê tử đạo, họ không chùn chân khi bị bắt mà còn thêm can đảm chống
lại kẻ hung hản. (…). Mấy ngày sau, quan trấn phái một quan toà hình sự tới.
Ông vào đây truyền cho giáo dân đến khai, nếu không khai mà bị khám thì sẽ bị
trừng trị. Tưởng lệnh nầy làm cho các chiến binh của Chúa sợ hải không ai dám
ra khai vì sợ bị phạt. Nhưng ông hết sức bỡ ngỡ thấy giáo dân lũ lượt kéo đến
ghi danh…(…). Ông muốn rút lui, nhưng tháy mình đã lấy danh dự mà làm thì liều
chọn trong số đó ba mươi sáu người, bắt trói lại và điệu tới tỉnh Quảng Nam nơi có ông Nghè Bộ
đang chờ…”[21]
Theo
cố học giả Phạm Đình Khiêm, trong tác phẩm chuyên khảo lịch sử về Á Thánh Anrê
Phú Yên thuộc vào loại “hàn lâm và khả tín nhất”, cuốn “NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT”,
thì nơi chương sách đề cập đến nhân vật “Ông Nghè Bộ” với tiêu đề “Một tay đẩm
máu” đã nói rất rõ. Xin trích :
“Ông quan làm tay sai cho Tống –thị[22]
mà các giáo-sĩ chép là “Onghebo”, là nhân vật nào trong các chức quan nói trên
? (…). Cứ theo danh xưng như nói trên, và theo cách giáo sĩ Đắc-lộ tả về chức
vụ của ông, thì ông không phải là trấn thủ cũng không phải ký lục. Lúc ấy quan
trấn thủ[23] tuy
có quyền tuyệt đối trong Dinh, song có lẽ quá bận riêng về quân sự, nên ông
cai-bộ nầy hành động như không có ai quyền trên. Còn quan ký-lục, tuy lo việc
từ tụng văn án, nhưng chắc là quyền dưới, vả lại việc phân quyền giữa hành pháp
và tư pháp lúc ấy chưa rõ rệt. Vì thế mà ta thấy “Ông Nghè Bộ” ra lệnh bắt thầy
giảng An-rê, triệu tập phiên toà (có các quan khác dự) và tuyên án xử tử. Sử
liệu không ghi lại tánh danh của ông, song từ đây tiếng xưng hô “Ông Nghè Bộ”
đã trở nên tên riêng của ông rồi”.[24]
Sở
dĩ dừng lại khá nhiều về chi tiết lịch sử nầy, vì đây là nhân vật liên quan
trực tiếp đến cuộc tử đạo của Chân phước Anrê Phú Yên, cũng giống như Philatô
liên quan đến cái chết của Chúa Giêsu ! Làm sao chúng ta có thể chấp nhận được
khi có tài liệu viết rằng : “Philatô đang
làm Tổng trấn ở Damas sang Giêrusalem bắt Chúa Giêsu và kết án Ngài !”
b/. Chi tiết thiếu : Sách HẠNH
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM, trong chương về Chân phước Anrê Phú Yên không đá
động đến “nơi ngài chịu tử đạo”.
Xin
được bổ túc chi tiết nầy :
“Thầy được cha Đắc Lộ giải tội và ban Của Ăn Đàng rồi hiên ngang theo
toán lính ra “Gò Xử”, một gò hoang dành để xử các tội phạm. (…). Nơi thầy bị xử
ngày nay chỉ còn một gò đất nhỏ trong địa bàn giáo họ Phước Kiều[25],
giáo xứ Hội An, giáo phận Đà Nẵng.”[26]
(Xem thêm : Phạm Đình Khiêm, NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT, CHƯƠNG X : Ý NGHĨA MỘT CÁI CHẾT
từ trang 151-164)
2. Những chi tiết trong cuốn BẢN
HỎI THƯA GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO :
Trong
sách BẢN HỎI THƯA GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO được UỶ BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN thuộc
HĐGMVN xuất bản năm 2013 (NXB Tôn giáo 2013) có PHẦN THỨ NĂM – HỘI THÁNH VIỆT
NAM.
Sau
đây xin được góp ý về 2 chi tiết của bài 76 : LỊCH SỬ HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM.
2.1 : Câu hỏi 656. H : Chứng nhân đức tin đầu tiên tại Việt Nam
là những ai ?
T : Là anh Phanxicô, làm việc bác ái mà bị
tra tấn và bị giết năm 1630, tại Đàng Ngoài
và thầy Anrê Phú Yên là học trò của cha Đắc Lộ, bị chém đầu năm 1644, tại Đàng
Trong.
Câu
“Thưa” (T) trên có thể chấp nhận được trước thời điểm năm 2000 ; chính xác là
trước ngày 05/3/2000, tức ngày Giáo Hội tuyên phong Á Thánh cho thầy giảng Anrê
Phú Yên với một “Danh xưng và tước hiệu” rõ ràng : ANRÊ PHÚ YÊN LÀ CHỨNG NHÂN
TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM. Xin trích nguyên văn câu tiếng La
tinh trong “SẮC LỆNH TUYÊN PHONG CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN” của Đức Thánh Giáo
Hoàng Gioan-Phaolô II : “IOANNES PAULUS PP-II ad perpetuam rei
memoriam.
- In nomine Jesu omne genu
flectatur caelestium et terrestrium et infernorum, et omnis lingua confiteatur
: - Dominus Jesus Christus !-, in gloriam Dei Patris – Philp 2,10-11. Juvenis
Andreas, protomartyr Ecclesiae Dei quae est in Vietnamia…” [27]
Vì
là “Sách Giáo Lý” nên “ngôn ngữ ngữ” phải mang tính “giáo lý”, tức phải dựa
trên nền tảng của Huấn Quyền. Ở đây, người viết không cố ý phủ nhận sự “có mặt”
của nhân vật giáo dân Phanxicô ở Đàng Ngoài bị giết vì đạo, hay còn bao nhiêu
tín hữu khác làm chứng đức tin bằng chính mạng sống mình. Nhưng để đáng được
gọi là “CHỨNG NHÂN TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA VIỆT NAM” (trên nền tảng giáo lý) dứt
khoát phải dành cho CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN. Đơn giản, đó chính là sự xác nhận CHÍNH
THỨC của HỘI THÁNH : PROTOMARTYR ECCLESIAE
DEI QUAE EST IN VIETNAMIA. (Xem thêm bài viết THẦY GIẢNG ANRÊ VỊ TỬ ĐẠO
ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM của Lm. Phaolô Molinari S.J. Thỉnh nguyện viên án phong
chân phước cho thầy Anrê. Lm. Giuse Trần Đức Anh chuyển ý[28]
và bài viết ANRÊ PHÚ YÊN VÀ GIÁO HỘI VIỆT NAM của lm. Dương Hữu Nhân (Roland
Jacques. Hà Huyền Tâm chuyển ngữ)[29]
2.2 : Câu hỏi : H. Linh mục đầu tiên người Việt Nam là những
ai ?
T : Là các linh mục Bê-nê-đic-tô Hiền và
Gio-an Huệ ở Đàng Ngoài, linh mục Giuse Trang và Luca Bền ở Đàng Trong. Tất cả
đều được Đức Giám Mục Lam-be đờ la Mốt truyền chức tại Thái Lan, ngày 31 tháng
Giêng năm 1688.
- Trước hết, không có một cuộc
truyền chức linh mục nào tại Thái Lan của Đức cha Lam-be Đờ la Mốt ngày 31
tháng Giêng năm 1688 như Sách Giáo Lý viết : “Tất cả đều được Đức Giám Mục
Lam-be đờ la Mốt truyền chức
tại Thái Lan, ngày 31 tháng Giêng năm 1688.”. Bởi vì Đức Cha Lam-be
Đờ la Mốt đã qua đời tại chủng viện Ajuthia (Thái Lan) ngày 15.06.1679.[30]
- Người Việt Nam đầu tiên duy
nhất được phong chức linh mục đó
là thầy Giuse Trang, 28 tuổi, quê Quảng Nghĩa. Thầy Trang được Đức cha Lambert
de la Motte phong chức đúng vào ngày lễ Vọng Phục Sinh, ngày 31 tháng 3 năm
1668 tại Ajuthia Thái Lan. Cùng thụ phong linh mục với cha Trang có
cha Francisco Perez, sau nầy làm Giám mục Đại diện Tông toà tại Đàng Trong
(1690-1728).[31]
- Các linh mục Việt Nam khác : Hai
cha Gioan Huệ và Bênêđictô Hiền được thụ phong vào tháng 6 năm 1668, tức là sau
lễ phong chức cha Giuse Trang 3 tháng. Trong khi đó cha Luca Bền được phong
chức vào đầu năm 1669.
- Nếu nói “thế hệ linh mục Việt nam đầu
tiên”, thì có thể xếp chung 4 vị linh mục có tên vừa kể; còn nếu
nói linh
mục người Việt nam đầu tiên thì phải dành riêng cho linh mục GIUSE
TRANG. Vì chứng liệu lịch sử đã ghi thật chính xác.
Ước
mong đôi điều “góp ý” trên sẽ được đón nhận với tinh thần cầu thị và với ý
hướng cũng như mục đích mà Đức Cha chủ biên Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã đề nghị : “để công việc chung càng tốt đẹp hơn”[32]
Cha sở quê nhà
(Ngày 15/7/2018).
[1]
Thư Công Bố Năm Thánh của HĐGMVN, đoạn mở đầu.
[2]
Ibid. Số 2
[3]
Ibid.
[4]
Theo nội dung được in trong trang bìa trước của tác phẩm HẠNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM.
[5]
SĐD, tr. 2
[6]
SĐD, tr. 6
[7]
Nhại lại câu thơ : “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” trong bài thơ “HẦU TRỜI” của
thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939).
[8]
Nguồn : Trang mạng vietnamnet : http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/thi-thpt-quoc-gia-2018-ket-qua-mon-su-ngoai-ngu-la-canh-bao-nghiem-khac-voi-nganh-giao-duc-462460.html
[9]
GS Phạm Hoàng Trung – Chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới. Nguồn (đã
dẫn)
[10]
Cao Đắc Tuấn. Nguồn : http://www.geocities.ws/xoathantuong/cdt_nhungLuaDaoLichSu.htm
[11]
Bloger Thuận Nhân. Nguồn : https://trithucvn.net/blog/dcstq-bop-meo-bo-mon-lich-su-nhu-the-nao.html
[12]
Marcus Tullius Cicero, một chính trị gia, luật gia, triết gia và là nhà hùng
biện của Rôma. Ông sống vào khoảng từ năm 106 – 43 trước Công Nguyên.
[13]
Chỉ xin góp ý về các Vị Thánh liên quan đến Giáo phận Qui Nhơn. Vì đây là “quê
nhà” của người viết.
[14]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 49.
[15]
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB
Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 220 và trang 258-259)
[16]
Ibid.
[17]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 40-41.
[18]
Ibid. Tr 39.
[19]
SĐD. Trang 215-217
[20]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 31-32.
[21]
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB
Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 220 và trang 75-76)
[22]
SĐD. Ghi chú 153 : Tống Thị là một dâm
hậu rất ghét đạo. Bà được Chúa Thượng coi như chính phi, tuy trước kia bà là vợ
của anh chúa. Sau nầy, sang đời chúa Hiền, vì bà dung sắc đẹp mê hoặc chúa, làm
lắm điều gian ác nên đã bị án trảm quyết”.
[23]
Phạm Đình Khiêm, NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT, Lịch sử tôn giáo chính trị miền Nam đầu
thế kỷ XVII. NXB Tinh Việt 1959. Tr. 115 : “Vào
khoảng năm 1644, Trấn-thủ Quảng Nam là Thế-tử Dũng-Lễ-hầu tức Nguyễn Phúc Tần,
(sau là chúa Hiền), con Công-thượng-vương, người chiến thắng hạm đội Hoà-Lan”.
[24]
SĐD. Tr. 115-117.
[25]
Phước Kiều hiện nay là “Giáo Họ Biệt Lập” thuộc giáo hạt Hội An. Nơi đây có Đền
Thánh Anrê Phú Yên Phước Kiều, một trong những Trung Tâm hành hương của giáo
phận Đà Nẵng. Nguồn : Trang mạng giáo phận Đà Nẵng : https://www.giaophandanang.org/den-thanh-anre-phu-yen-phuoc-kieu-trung-tam-hanh-huong-nam-thanh-ton-vinh-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-tai-giao-phan-da-nang.html
[26]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 32-33.
[27]
ĐGH Gioan-Phaolô II, Sắc lệnh phong chân phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên.
[28]
Nhiều tác giả (Lm. Giuse Trương Đình Hiền chủ biên) : RỰC SÁNG MỘT VÌ SAO, Tìm
về chân dung Á Thánh Anrê Phú Yên 1625-1644, nxb 2006. Tr. 19-28.
[29]
SĐD. Tr. 39-48
[30]
Đỗ Quang Chính S.J. HAI GIÁM MỤC ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM. NXB Tôn Giáo 2008. Tr.
109. (Xem thêm : BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG
THỜI GIAN, NXB Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 143)
[Launay (Adrien), Histoire de la Mission de Siam. Documents
historiques, tome I :
1657-1811, Paris, Téqui, 1920, p. 26]
Deux séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés
furent faits prêtres le dernier jour de mars, veille de Pâques [1668], « sub tilulo missionum » ;
l’un se nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut
envoyé à ce sujet par feu Mr Hainques, et l’autre François Pérez, fils d’un
Portugais originaire de Negapalan sur la côte de Coromandel, âgé de 24 à 25
ans. Ces deux sujets sont considérables pour leur piété et leur dégagement. Le
premier a eu l’honneur de recevoir plusieurs coups de bâton dans les prisons de
Cochinchinois, à cause qu’on le voyait assister les généreux fidèles qui y
étaient détenus, et qui furent depuis condamnés à mort en haine de ce qu’ils
professaient la religion chrétienne ; le second a été le seul Portugais
qui ne sortit point du séminaire, lorsque l’on publia le papier contre les
missionnaires sous le nom du commissaire du Saint-Office. On ne peut assez
bénir Dieu de ce qu’il a donné à la mission ces deux personnes, qui ont de
belles dispositions pour être quelque jour de grands missionnaires.
-
(xem thêm Launay (Adrien), Histoire de
la Mission de
Cochinchine. tome I : 1658-1728, Paris, 2000, p. 62] :
Deux
séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés furent faits prêtres le
dernier jour de mars, veille de Pâques sub tilulo missionum ; l’un se
nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut envoyé à ce
sujet par feu Mr Hainques ; il a eu l’ honneur de recevoir plusieurs coups
de baton dans les prisons de la Cochinchine à cause qu’ on le voyait assister
les généreurx fidèles qui y étaitent détenus, et qui furent depuis condamnés à
mort en haine de ce qu’ ils professaient la religion chrétienne.
- (Xem thêm : BAN
BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB Antôn
& Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 119).
[1]
Thư Công Bố Năm Thánh của HĐGMVN, đoạn mở đầu.
[2]
Ibid. Số 2
[3]
Ibid.
[4]
Theo nội dung được in trong trang bìa trước của tác phẩm HẠNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM.
[5]
SĐD, tr. 2
[6]
SĐD, tr. 6
[7]
Nhại lại câu thơ : “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” trong bài thơ “HẦU TRỜI” của
thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939).
[8]
Nguồn : Trang mạng vietnamnet : http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/thi-thpt-quoc-gia-2018-ket-qua-mon-su-ngoai-ngu-la-canh-bao-nghiem-khac-voi-nganh-giao-duc-462460.html
[9]
GS Phạm Hoàng Trung – Chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới. Nguồn (đã
dẫn)
[10]
Cao Đắc Tuấn. Nguồn : http://www.geocities.ws/xoathantuong/cdt_nhungLuaDaoLichSu.htm
[11]
Bloger Thuận Nhân. Nguồn : https://trithucvn.net/blog/dcstq-bop-meo-bo-mon-lich-su-nhu-the-nao.html
[12]
Marcus Tullius Cicero, một chính trị gia, luật gia, triết gia và là nhà hùng
biện của Rôma. Ông sống vào khoảng từ năm 106 – 43 trước Công Nguyên.
[13]
Chỉ xin góp ý về các Vị Thánh liên quan đến Giáo phận Qui Nhơn. Vì đây là “quê
nhà” của người viết.
[14]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 49.
[15]
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB
Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 220 và trang 258-259)
[16]
Ibid.
[17]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 40-41.
[18]
Ibid. Tr 39.
[19]
SĐD. Trang 215-217
[20]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 31-32.
[21]
BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB
Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 220 và trang 75-76)
[22]
SĐD. Ghi chú 153 : Tống Thị là một dâm
hậu rất ghét đạo. Bà được Chúa Thượng coi như chính phi, tuy trước kia bà là vợ
của anh chúa. Sau nầy, sang đời chúa Hiền, vì bà dung sắc đẹp mê hoặc chúa, làm
lắm điều gian ác nên đã bị án trảm quyết”.
[23]
Phạm Đình Khiêm, NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT, Lịch sử tôn giáo chính trị miền Nam đầu
thế kỷ XVII. NXB Tinh Việt 1959. Tr. 115 : “Vào
khoảng năm 1644, Trấn-thủ Quảng Nam là Thế-tử Dũng-Lễ-hầu tức Nguyễn Phúc Tần,
(sau là chúa Hiền), con Công-thượng-vương, người chiến thắng hạm đội Hoà-Lan”.
[24]
SĐD. Tr. 115-117.
[25]
Phước Kiều hiện nay là “Giáo Họ Biệt Lập” thuộc giáo hạt Hội An. Nơi đây có Đền
Thánh Anrê Phú Yên Phước Kiều, một trong những Trung Tâm hành hương của giáo
phận Đà Nẵng. Nguồn : Trang mạng giáo phận Đà Nẵng : https://www.giaophandanang.org/den-thanh-anre-phu-yen-phuoc-kieu-trung-tam-hanh-huong-nam-thanh-ton-vinh-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-tai-giao-phan-da-nang.html
[26]
TOÀ GIÁM MỤC QUI NHƠN, CẨM NANG NĂM THÁNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN 2017-2018. TỦ SÁCH
NƯỚC Mặn Qui Nhơn 2017. Trang 32-33.
[27]
ĐGH Gioan-Phaolô II, Sắc lệnh phong chân phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên.
[28]
Nhiều tác giả (Lm. Giuse Trương Đình Hiền chủ biên) : RỰC SÁNG MỘT VÌ SAO, Tìm
về chân dung Á Thánh Anrê Phú Yên 1625-1644, nxb 2006. Tr. 19-28.
[29]
SĐD. Tr. 39-48
[30]
Đỗ Quang Chính S.J. HAI GIÁM MỤC ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM. NXB Tôn Giáo 2008. Tr.
109. (Xem thêm : BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG
THỜI GIAN, NXB Antôn & Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 143)
[Launay (Adrien), Histoire de la Mission de Siam. Documents
historiques, tome I :
1657-1811, Paris, Téqui, 1920, p. 26]
Deux séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés
furent faits prêtres le dernier jour de mars, veille de Pâques [1668], « sub tilulo missionum » ;
l’un se nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut
envoyé à ce sujet par feu Mr Hainques, et l’autre François Pérez, fils d’un
Portugais originaire de Negapalan sur la côte de Coromandel, âgé de 24 à 25
ans. Ces deux sujets sont considérables pour leur piété et leur dégagement. Le
premier a eu l’honneur de recevoir plusieurs coups de bâton dans les prisons de
Cochinchinois, à cause qu’on le voyait assister les généreux fidèles qui y
étaient détenus, et qui furent depuis condamnés à mort en haine de ce qu’ils
professaient la religion chrétienne ; le second a été le seul Portugais
qui ne sortit point du séminaire, lorsque l’on publia le papier contre les
missionnaires sous le nom du commissaire du Saint-Office. On ne peut assez
bénir Dieu de ce qu’il a donné à la mission ces deux personnes, qui ont de
belles dispositions pour être quelque jour de grands missionnaires.
-
(xem thêm Launay (Adrien), Histoire de
la Mission de
Cochinchine. tome I : 1658-1728, Paris, 2000, p. 62] :
Deux
séminaristes se trouvant en état d’être ordonnés furent faits prêtres le
dernier jour de mars, veille de Pâques sub tilulo missionum ; l’un se
nomme Joseph, catéchiste cochinchinois, âgé de 28 à 29 ans, qui fut envoyé à ce
sujet par feu Mr Hainques ; il a eu l’ honneur de recevoir plusieurs coups
de baton dans les prisons de la Cochinchine à cause qu’ on le voyait assister
les généreurx fidèles qui y étaitent détenus, et qui furent depuis condamnés à
mort en haine de ce qu’ ils professaient la religion chrétienne.
- (Xem thêm : BAN
BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN, NXB Antôn
& Đuốc sáng tháng 6/2017. Trang 119).
[32]
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, HẠNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM, nxb Tôn giáo 2018,
tr. 6.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét